Thực trạng và nhu cầu đổi mới công nghệ Ông Nguyễn Văn Thụ, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam thừa nhận tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp đang “có dấu hiệu” đi xuống và cho rằng nguyên nhân chính là sự “yếu kém” của ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo, ngành công nghiệp nền tảng có vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa đối với bất kỳ quốc gia nào. Công nghiệp cơ khí chế tạo là ngành công nghiệp cơ bản, tạo nên nền tảng công nghiệp của một quốc gia và quyết định năng lực công nghiệp hóa, xây dựng giá trị gia tăng cho sản phẩm công nghiệp. Thời gian qua, ngành công nghiệp hỗ trợ đã được Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm và có nhiều chuyển biến đáng kể trong nhận thức cũng như trong hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam. Khả năng nội địa hóa trong một số ngành đã gia tăng như công nghiệp xe máy đạt tới 90% nhưng trong phần lớn các ngành khác, tỷ lệ cung ứng nội địa còn rất thấp do trình độ phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo nói riêng của Việt Nam còn kém xa so với kỳ vọng và so với yêu cầu. Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí là một trong những ngành có thế mạnh nhưng thực tế trong cả thời kỳ dài, đầu tư cho cơ khí luôn trong tình trạng “chắp vá” do dấu hiệu không khả quan về thị trường, tổng giá trị đầu tư thấp chỉ tương đương đầu tư một nhà máy nhiệt điện. Các thiết bị nhập khẩu quá cũ từ Liên Xô cũ chiếm 25%, Đông Âu chiếm 21%..., khó khăn về phụ tùng thay thế nên giờ hoạt động thấp, năng lực sản xuất chỉ đạt 50% do hết khấu hao. Các doanh nghiệp ngành cơ khí hoạt động chưa có gắn kết với thị trường, gắn với hợp tác hóa và chuyên môn hóa giữa các doanh nghiệ. Do thiết bị cũ nát, chắp vá nên không thể sản xuất được những sản phẩm yêu cầu độ chính xác cao, không đáp ứng được thị hiếu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, suất tiêu hao vật liệu lớn, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm cao, nhiều tiêu chuẩn không còn phù hợp… nên giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp không đủ sức cạnh tranh ngay tại chính thị trường nội địa. Theo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, các ngành công nghiệp hỗ trợ đều được xác định trên cơ sở các ngành cung ứng và các ngành này phải đáp ứng được nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Nhưng thực tế công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí của Việt Nam không thể cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp của các tập đoàn đa quốc gia, bởi công nghệ ngành cơ khí lỗi thời và lạc hậu, máy móc thuộc thế hệ những năm 70-80, trong đó hơn 60% đã hết khấu hao. Tuổi thọ trung bình của máy móc trên 20 năm chiếm tới 38% và dưới 5 năm chỉ chiếm có 27%. Vì vậy, việc đổi mới hấp thụ công nghệ trước mắt sẽ từng bước giúp Việt Nam cung ứng cho các doanh nghiệp phụ trợ FDI, từ đó tiến tới việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Xác định yếu tố và những ưu tiên đổi mới công nghệ Đổi mới thiết bị công nghệ là điều cần thiết với mỗi doanh nghiệp, song để việc đổi mới thật sự có hiệu quả và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp cũng như đáp ứng nhu cầu xã hội hoàn toàn không đơn giản. Vì vậy, các doanh nghiệp cần xác định, đánh giá để đảm bảo các yếu tố đổi mới công nghệ thành công. Yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp phải quan tâm là việc đổi mới phải đón trước được yêu cầu và thị hiếu của thị trường, nên doanh nghiệp không có điều tra, nghiên cứu thì hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ sẽ “vô nghĩa.” Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ phải bắt kịp tiến bộ khoa học và công nghệ đảm bảo công nghệ đáp ứng được nhu cầu thị trường, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tránh việc đầu tư vào công nghệ lạc hậu, giảm sút hiệu quả đầu tư. Yếu tố “then chốt” là doanh nghiệp phải đầu tư đồng bộ, có trọng điểm. Theo đó, doanh nghiệp phải xác định, lựa chọn các công nghệ ưu tiên cần đầu tư, đổi mới và phải đồng bộ, có trọng điểm. Tính đồng bộ trong đổi mới rất quan trọng để sản phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận với đầy đủ các mặt về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã… Việc đổi mới một cách “khập khiễng,” không đồng bộ làm người tiêu dùng khó nhận ra những ưu điểm của sản phẩm, từ đó giảm hiệu quả và tác dụng của việc đổi mới công nghệ máy móc, thiết bị. Nhưng để đổi mới đồng bộ đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn và điều này là trở ngại đối với doanh nghiệp. Ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết cả nước có hơn 1.300 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nhưng số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí rất “khiêm tốn.” Thực tế, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ đã tiến hành xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ với nhóm sản phẩm trong danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiêu phát triển là sản phẩm khuôn mẫu thuộc ngành cơ khí đã cho thấy tiềm năng nhưng hiện trạng và năng lực công nghệ của doanh nghiệp “yếu.” Từ bản đồ công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ ngành khuôn mẫu, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ thông qua các Quỹ để tạo điều kiện, hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí từng bước nâng cao năng lực công nghệ và phát triển. Ông Nguyễn Đức Thịnh, Ban Thông tin Thị trường Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cho rằng cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề về cơ khí chế tạo tham gia chương trình đổi mới công nghệ và phát triển công nghệ hỗ trợ. Ngành công nghiệp cơ khí là ngành thâm dụng vốn và công nghệ nên nhà nước cần có chính sách, chế độ “ưu đãi” về vốn, mở rộng và linh hoạt các hình thức vay vốn. Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo có nhu cầu vay vốn nước ngoài, Chính phủ có thể xem xét bảo lãnh vốn vay với từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, có thể dành một phần vốn ODA cho ngành cơ khí cũng như khuyến khích, hướng nguồn vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí… để Việt Nam bứt phá, khẳng định vai trò và thế mạnh trong lĩnh vực cơ khí chế tạo và đạt mục đích công nghiệp hóa quốc gia vào năm 2020./.
Thực trạng và nhu cầu đổi mới công nghệ Ông Nguyễn Văn Thụ, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam thừa nhận tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp đang “có dấu hiệu” đi xuống và cho rằng nguyên nhân chính là sự “yếu kém” của ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo, ngành công nghiệp nền tảng có vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa đối với bất kỳ quốc gia nào. Công nghiệp cơ khí chế tạo là ngành công nghiệp cơ bản, tạo nên nền tảng công nghiệp của một quốc gia và quyết định năng lực công nghiệp hóa, xây dựng giá trị gia tăng cho sản phẩm công nghiệp. Thời gian qua, ngành công nghiệp hỗ trợ đã được Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm và có nhiều chuyển biến đáng kể trong nhận thức cũng như trong hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam. Khả năng nội địa hóa trong một số ngành đã gia tăng như công nghiệp xe máy đạt tới 90% nhưng trong phần lớn các ngành khác, tỷ lệ cung ứng nội địa còn rất thấp do trình độ phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo nói riêng của Việt Nam còn kém xa so với kỳ vọng và so với yêu cầu. Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí là một trong những ngành có thế mạnh nhưng thực tế trong cả thời kỳ dài, đầu tư cho cơ khí luôn trong tình trạng “chắp vá” do dấu hiệu không khả quan về thị trường, tổng giá trị đầu tư thấp chỉ tương đương đầu tư một nhà máy nhiệt điện. Các thiết bị nhập khẩu quá cũ từ Liên Xô cũ chiếm 25%, Đông Âu chiếm 21%..., khó khăn về phụ tùng thay thế nên giờ hoạt động thấp, năng lực sản xuất chỉ đạt 50% do hết khấu hao. Các doanh nghiệp ngành cơ khí hoạt động chưa có gắn kết với thị trường, gắn với hợp tác hóa và chuyên môn hóa giữa các doanh nghiệ. Do thiết bị cũ nát, chắp vá nên không thể sản xuất được những sản phẩm yêu cầu độ chính xác cao, không đáp ứng được thị hiếu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, suất tiêu hao vật liệu lớn, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm cao, nhiều tiêu chuẩn không còn phù hợp… nên giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp không đủ sức cạnh tranh ngay tại chính thị trường nội địa. Theo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, các ngành công nghiệp hỗ trợ đều được xác định trên cơ sở các ngành cung ứng và các ngành này phải đáp ứng được nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Nhưng thực tế công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí của Việt Nam không thể cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp của các tập đoàn đa quốc gia, bởi công nghệ ngành cơ khí lỗi thời và lạc hậu, máy móc thuộc thế hệ những năm 70-80, trong đó hơn 60% đã hết khấu hao. Tuổi thọ trung bình của máy móc trên 20 năm chiếm tới 38% và dưới 5 năm chỉ chiếm có 27%. Vì vậy, việc đổi mới hấp thụ công nghệ trước mắt sẽ từng bước giúp Việt Nam cung ứng cho các doanh nghiệp phụ trợ FDI, từ đó tiến tới việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Xác định yếu tố và những ưu tiên đổi mới công nghệ Đổi mới thiết bị công nghệ là điều cần thiết với mỗi doanh nghiệp, song để việc đổi mới thật sự có hiệu quả và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp cũng như đáp ứng nhu cầu xã hội hoàn toàn không đơn giản. Vì vậy, các doanh nghiệp cần xác định, đánh giá để đảm bảo các yếu tố đổi mới công nghệ thành công. Yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp phải quan tâm là việc đổi mới phải đón trước được yêu cầu và thị hiếu của thị trường, nên doanh nghiệp không có điều tra, nghiên cứu thì hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ sẽ “vô nghĩa.” Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ phải bắt kịp tiến bộ khoa học và công nghệ đảm bảo công nghệ đáp ứng được nhu cầu thị trường, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tránh việc đầu tư vào công nghệ lạc hậu, giảm sút hiệu quả đầu tư. Yếu tố “then chốt” là doanh nghiệp phải đầu tư đồng bộ, có trọng điểm. Theo đó, doanh nghiệp phải xác định, lựa chọn các công nghệ ưu tiên cần đầu tư, đổi mới và phải đồng bộ, có trọng điểm. Tính đồng bộ trong đổi mới rất quan trọng để sản phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận với đầy đủ các mặt về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã… Việc đổi mới một cách “khập khiễng,” không đồng bộ làm người tiêu dùng khó nhận ra những ưu điểm của sản phẩm, từ đó giảm hiệu quả và tác dụng của việc đổi mới công nghệ máy móc, thiết bị. Nhưng để đổi mới đồng bộ đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn và điều này là trở ngại đối với doanh nghiệp. Ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết cả nước có hơn 1.300 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nhưng số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí rất “khiêm tốn.” Thực tế, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ đã tiến hành xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ với nhóm sản phẩm trong danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiêu phát triển là sản phẩm khuôn mẫu thuộc ngành cơ khí đã cho thấy tiềm năng nhưng hiện trạng và năng lực công nghệ của doanh nghiệp “yếu.” Từ bản đồ công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ ngành khuôn mẫu, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ thông qua các Quỹ để tạo điều kiện, hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí từng bước nâng cao năng lực công nghệ và phát triển. Ông Nguyễn Đức Thịnh, Ban Thông tin Thị trường Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cho rằng cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề về cơ khí chế tạo tham gia chương trình đổi mới công nghệ và phát triển công nghệ hỗ trợ. Ngành công nghiệp cơ khí là ngành thâm dụng vốn và công nghệ nên nhà nước cần có chính sách, chế độ “ưu đãi” về vốn, mở rộng và linh hoạt các hình thức vay vốn. Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo có nhu cầu vay vốn nước ngoài, Chính phủ có thể xem xét bảo lãnh vốn vay với từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, có thể dành một phần vốn ODA cho ngành cơ khí cũng như khuyến khích, hướng nguồn vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí… để Việt Nam bứt phá, khẳng định vai trò và thế mạnh trong lĩnh vực cơ khí chế tạo và đạt mục đích công nghiệp hóa quốc gia vào năm 2020./.
Thông tin này có thể không còn chính xác
8B/52 Tô Ngọc Vân, Q. Tây Hồ, Hà Nội
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Với sản lượng xuất khẩu trung bình mỗi năm khoảng 126,8 nghìn tấn, sản phẩm chè của Việt Nam đã xuất khẩu tới 74 quốc gia, vùng lãnh thổ. Tổng diện tích cây chè cả nước hiện nay khoảng 122.000ha. Các địa phương trồng chè chủ yếu là Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng, Nghệ An, Yên Bái, Hà Giang... Từ đầu năm 2024 đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu chè đạt khoảng 123,8 nghìn tấn, giá trị đạt 217,7 triệu USD, tăng 32,1% về khối lượng và tăng 33,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Các thị trường xuất khẩu gồm: Pakistan (40% thị phần), Đài Loan (10,1% thị phần), Trung Quốc (8% thị phần)... Giá xuất khẩu trung bình trong 10 tháng khoảng 1.758USD/tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Việt Nam hiện cũng đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, nhưng sản phẩm chè chủ yếu là chè đen và chè xanh. Giá sản phẩm chè xuất khẩu của Việt Nam hiện rất thấp, chỉ từ 1,7-1,8USD/kg, bằng 50-75% so với sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới (giá chè xuất khẩu của các nước trên thế giới hiện khoảng 2,6USD/kg). Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam băn khoăn: Giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam hiện chỉ bằng 65% giá bình quân của các nước hàng đầu thế giới và chỉ bằng 55% giá chè xuất khẩu bình quân của Ấn Độ và Sri Lanka. Mặc dù sản lượng và số lượng xuất khẩu lớn nhưng giá trị thu được của mặt hàng này lại chưa cao, không ổn định, vẫn phụ thuộc vào một số thị trường chính, nhất là tính cạnh tranh hiện nay còn thấp.
Theo ông Hoàng Vĩnh Long, một nghịch lý khác với cây chè là thế giới đang nhìn nhận thị trường chè Việt Nam là thị trường giá rẻ và tìm kiếm lợi nhuận tại đây, trong khi người làm chè chỉ tập trung sản xuất để đạt thỏa thuận mua bán trước mắt. Đây là lý do chè Việt Nam dễ rơi vào “bẫy giá rẻ” của thế giới. Ở chiều ngược lại, tiêu thụ nội địa chúng ta lại làm rất tốt. "Tại các tỉnh: Thái Nguyên, Hà Giang, Sơn La, giá bán chè ở mức 7-20USD/kg, trong khi đó, giá chè xuất khẩu bình quân chỉ là 1,75USD/kg”, ông Long nêu thực tế.
Bà Võ Thị Nhung, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An chia sẻ: Nghệ An là địa phương có diện tích chè phát triển lớn thứ ba cả nước, với hơn 8.000ha đất trồng chè. Sản lượng chè búp tươi đạt gần 80.000 tấn/năm. Tuy nhiên, giá trị cây chè trên địa bàn Nghệ An lại đang khá thấp so với các địa phương trồng chè trong cả nước. Nếu như giá chè búp tươi của Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng, có những thời điểm giá bán lên tới 15.000-20.000 đồng/kg (hiện nay có doanh nghiệp tại Phú Thọ mua chè búp tươi từ 5.000-10.000 đồng/kg tùy loại thu hoạch bằng tay hoặc máy) thì ở Nghệ An giá chè búp tươi cao nhất cũng chỉ đạt 6.000 đồng/kg, thậm chí có thời điểm giá chỉ còn 2.000-3.000 đồng/kg.
Làm gì để nâng tầm giá trị cho cây chè Việt Nam? Câu trả lời là trước tiên chúng ta cần phải thay đổi tư duy, tìm con đường thương mại mới cho chè Việt, liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân, chính quyền địa phương... để xây dựng chuỗi giá trị cho cây chè, sản phẩm chè. Cùng với tập trung đầu tư chế biến, Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu các sản phẩm chè Việt trên thị trường quốc tế.
Là đơn vị xuất khẩu chè lớn của cả nước, Công ty TNHH Thế Hệ Mới hiện đang tập trung vào việc nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm chè, đầu tư trang thiết bị, công nghệ sản xuất túi lọc, bảo đảm chất lượng chè cao nhất, nói không với các chất bảo vệ thực vật không được phép. Ông Đoàn Anh Tuân, Giám đốc Công ty TNHH Thế Hệ Mới cho rằng, để nâng cao giá trị cho cây chè, người sản xuất, chế biến và thương mại chè Việt cần thay đổi về cách tư duy, cách tiếp cận thị trường, trong đó có sản phẩm chè chất lượng cao để khẳng định giá trị, uy tín, chất lượng cho chè của Việt Nam.
Về giống chè, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Lam, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chè, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) cho biết, Trung tâm đã phát triển thành công hai giống chè mới là Hương Bắc Sơn và TRI5.0. Hiện hai giống chè trên và các giống chè: PH12, PH14, LP18, TC4, LCT1, PH22, PH276, VN15, PH21... đều được đánh giá là những giống chè sinh trưởng khỏe, năng suất cao, chất lượng tốt, góp phần quan trọng trong việc đa dạng hóa cơ cấu giống cũng như các chất lượng sản phẩm chè của Việt Nam trên thị trường.
Thời gian tới, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc sẽ chú trọng phát triển các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chịu hạn nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Các giống chè mới này cũng được nghiên cứu để có hàm lượng polyphenol cao, phục vụ cho sản xuất chè chất lượng cao và các sản phẩm thực phẩm chức năng. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ sinh học phân tử và hóa sinh chè để cải thiện khả năng chống chịu sâu bệnh hại, nâng cao năng suất và chất lượng của giống chè.
Hy vọng với tư duy mới trong trồng, sản xuất, chế biến, thương mại chè, nhất là chuỗi liên kết doanh nghiệp-hợp tác xã-nông dân... sẽ giúp đưa sản phẩm chè Việt vươn xa, thoát được cảnh xuất khẩu nhiều nhưng lãi ít.
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.